Số 21 đường 30/4 - phường 1 - TP Mỹ Tho - tỉnh Tiền Giang               Hotline: 0273 3872 582               Email: tiengiang@gso.gov.vn

"CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG CỤC THỐNG KÊ TỈNH TIỀN GIANG SỐNG VÀ LÀM VIỆC THEO HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT"

 

 

Tổng Cục Thống kê

Cổng Thông tin điện tử

tỉnh Tiền Giang

                                                                                     - Hướng dẫn Đăng ký tài khoản (Xem Clip)

                                                                                     - Hướng dẫn tra cứu thông tin (Xem Clip)

                                                                                  - Hướng dẫn đăng ký hộ kinh doanh (Xem Clip)

                                                                                     - Hướng dẫn đăng ký khai sinh (Xem Clip)

Thăm Dò Ý Kiến
Thông tin bạn quan tâm nhất trên trang web này





Năm 2019
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tiền Giang 9 tháng đầu năm 2019
Chủ nhật, Ngày 29 Tháng 9 Năm 2019

    A. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ

    1. Tăng trưởng kinh tế:

    Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 45.234 tỷ đồng, (giá so sánh năm 2010) tăng 7,14% so với 9 tháng đầu năm 2018, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,95%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 11,99% và khu vực dịch vụ tăng 7,71% (bao gồm thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm); Nếu tách riêng thuế sản phẩm thì khu vực dịch vụ tăng 6,88% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 12,20% so cùng kỳ. Trong 7,14% tăng trưởng thì khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản đóng góp 15,40%, khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 47,04%, khu vực dịch vụ đóng góp 28,27% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm là 9,29%. GRDP nếu tính theo giá hiện hành đạt 66.018 tỷ đồng.

    Cơ cấu kinh tế: chuyển dịch theo đúng định hướng, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 37,1% (cùng kỳ 38,7%); khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 28,5% (cùng kỳ 27,0%); khu vực dịch vụ chiếm 29,0% (cùng kỳ 29,1%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,4%, (cùng kỳ 5,2%).

    2. Tài chính - Ngân hàng:

    a. Tài chính:          

    Tổng thu ngân sách nhà nước 9 tháng đầu năm 2019 được 12.421 tỷ đồng, đạt 98,3% dự toán, tăng 25,3% so cùng kỳ; trong đó: thu ngân sách trên địa bàn thực hiện 8.176 tỷ đồng, đạt 87,9% dự toán và tăng 29,9% so cùng kỳ; thu nội địa 7.945 tỷ đồng, đạt 89% dự toán, tăng 31,5% so cùng kỳ... cụ thể một số khoản thu chủ yếu như sau: Thu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2.902 tỷ đồng, đạt 106,9% so dự toán, tăng 50,5% so cùng kỳ; thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 893 tỷ đồng, đạt 69,3% dự toán, tăng 16,9% ; thuế thu nhập cá nhân 505 tỷ đồng, đạt 72,1% so dự toán, tăng 13,4%; thu tiền sử dụng đất là 677 tỷ đồng, đạt 188% so dự toán, tăng 172% so cùng kỳ do trong những tháng đầu năm 2019 tỉnh đã thu được tiền sử dụng đất dự án đường Hùng Vương nối dài, khu tái định cư trường Đại học Tiền Giang...; thu hoạt động xổ số kiến thiết 1.231 tỷ đồng, đạt 74,6% dự toán, giảm 2,9% so cùng kỳ.

    Tổng chi ngân sách địa phương 9 tháng đầu năm 2019 là 8.527 tỷ đồng, đạt 74,9% dự toán, tăng 23,6% so cùng kỳ; trong đó: cChi đầu tư phát triển 2.594 tỷ đồng, đạt 67,4% dự toán, tăng 18,7%; chi thường xuyên là 5.185 tỷ đồng, đạt 76,3% dự toán, tăng 18,2% so cùng kỳ; chi sự nghiệp văn xã 3.085 tỷ đồng, đạt 72,9% dự toán, tăng 8,9% so cùng kỳ, các khoản chi theo dự toán và đảm bảo được yêu cầu chi hoạt động của các ngành, trong đó đảm bảo kinh phí chăm lo Tết Nguyên đán cho người có công, gia đình chính sách tiêu biểu, các đơn vị, người cao tuổi, người nghèo và các đối tượng tại các đơn vị xã hội trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019; mua bảo hiểm cho các đối tượng chính sách và đối tượng xã hội được ngân sách hỗ trợ...

    b. Ngân hàng:

    Mặt bằng lãi suất được duy trì ổn định từ đầu năm nên tiền gửi ngân hàng vẫn được người dân lựa chọn là kênh đầu tư sinh lợi an toàn. Công tác huy động vốn của các tổ chức tín dụng được thuận lợi, vốn huy động liên tục tăng theo đà tăng của các tháng trước. Đến cuối tháng 8/2019, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn 66.930 tỷ đồng, tăng 6.586 tỷ đồng với tỷ lệ tăng là 10,9% so đầu năm (vượt kế hoạch đặt ra là tăng 7%). Vốn huy động tăng bình quân 1,3%/tháng. Ước đến cuối tháng 9/2019, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn 67.666 tỷ đồng, tăng 736 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 1,1% so cuối tháng 8/2019, so cùng kỳ tăng 8.706 tỷ đồng với tỷ lệ tăng 14,8%.

    Đến cuối tháng 8/2019, tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng trong tỉnh 53.374 tỷ đồng, tăng 4.929 tỷ đồng, với tỷ lệ tăng 10,2% so đầu năm. Dư nợ cho vay tăng bình quân là 1,2%/ tháng. Ước đến cuối tháng 9/2019, dư nợ trên địa bàn 54.174 tỷ, tăng 801 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 1,5% so với cuối tháng trước, so cùng kỳ tăng 5.808 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 14,4%. Với tình hình ổn định chung của phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của ngành Ngân hàng, dự đoán tín dụng trong các tháng cuối năm sẽ tiếp tục ổn định và tăng hơn đà tăng của các tháng trước do nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh trong những tháng cuối năm cao hơn các thời điểm khác trong năm. Đến cuối tháng 8/2019, số dư là 320 tỷ đồng, chiếm 0,6%/tổng dư nợ, tăng 60 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 0,06% so đầu năm. Nhìn chung các ngân hàng phát sinh nợ xấu trong giới hạn an toàn với tỷ lệ thấp.

    3. Giá cả, lạm phát:

    Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2019 tăng 0,32% so tháng 8/2019 (thành thị tăng 0,47%, nông thôn tăng 0,28%), so cùng kỳ năm trước tăng 2,15%, so tháng 12 năm 2018 tăng 2%.

    Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 7 nhóm hàng chỉ số giá tăng so tháng trước: tăng cao nhất là nhóm giáo dục tăng 6,06%; kế đến là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,35%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,20%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,10%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,10%... Có 4 nhóm giảm: thuốc và dịch vụ y tế giảm 0,46%; giao thông giảm 1,3%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,1%; bưu chính viễn thông giảm 0,05%.

    Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2019 tăng so tháng 8/2019 do:

    - Giá gạo tháng này tăng 0,23%, do tình hình xuất khẩu gạo thuận lợi, các doanh nghiệp tăng cường thu mua để đáp ứng đủ số lượng gạo đã ký kết hợp đồng ngay từ đầu năm.

   - Giá học phí năm học 2019-202) điều chỉnh tăng theo lộ trình của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính Phủ và Nghị Quyết số 09/2019/NQ-HĐND ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh, dẫn đến nhóm hàng giáo dục tăng 6,06% so với tháng trước, đóng góp vào mức tăng chung CPI khoảng 0,31%. (trong đó: học phí nghề kỹ thuật (may) tăng 22,22% đóng góp 0,08%, trung cấp tăng 8,77% đóng góp 0,09%, cao đẳng tăng 8,47% đóng góp 0,07% và đại học tăng 9,64% đóng góp 0,04%).

    - Lễ Quốc khánh 02/9 lên tục với ngày nghỉ cuối tuần nên nghỉ được nhiều ngày, nhu cầu đi lại, vui chơi và giải trí tăng, dẫn đến nhóm hàng ăn uống ngoài gia đình tăng 1,01%, giá vé ô tô khách tăng 1,49% và giá khách sạn tăng 0,5% so tháng trước.

    Bên cạnh đó, có một số mặt hàng chỉ số giá giảm nhưng tỷ trọng quyền số nhỏ nên tác động chưa đủ lớn đến chỉ số giá tiêu dùng chung như:

    - Hiện nay đang vào mùa thu hoạch rau xanh, dẫn đến giá rau tươi, khô và chế biến giảm 1,66%.

    - Thực hiện Thông tư số 37/2018/TT- BYT ngày 30/11/2018 của Bộ y tế và Nghị Quyết số 12/2019/NQ-HĐND ngày 12/7/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh về Quy định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh không thuộc phạm vi thanh toán của quỹ BHYT đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của nhà nước, dẫn đến chỉ số giá nhóm dịch vụ y tế giảm 0,46%, tác động đến CPI giảm 0,02%.

    - Tại Tiền Giang mưa nhiều, thời tiết mát, nhu cầu sử dụng điện, nước sinh hoạt giảm làm cho chỉ số giá điện sinh hoạt giảm 0,25%, chỉ số giá nước sinh hoạt giảm 0,07% so với tháng trước.

    - Giá xăng dầu được điều chỉnh giảm vào ngày 02/9/2019 giá xăng A95 trong tháng giảm: 260 đồng/lít, xăng E5 giảm 240 đồng/lít, dầu diezen 0,05S giảm: 300 đồng/lít, tác động giá nhiên liệu giảm 2,47%. Giá gas giảm 3.000 đồng/bình 12 kg vào ngày 01/9/2019, tác động chỉ số giá gas giảm 2,6%.

    Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm 2019 so cùng kỳ tăng 2,61%; một số nhóm hàng có chỉ số giá tăng nhiều trong 9 tháng năm 2019 so cùng kỳ như: nhóm giáo dục tăng 5,75%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,80%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,99%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,76%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,74%...

    Chỉ số giá vàng 24 kara Ngọc Thẩm trong tháng 9/2019 tăng 3,21% so tháng trước; giá bình quân tháng 9/2019 là 4.176 ngàn đồng/chỉ, tăng 762 ngàn đồng/chỉ so cùng kỳ.

    Chỉ số giá đô la Mỹ trong tháng 9/2019 giảm 0,05% so tháng trước, giá bình quân 23.264 đồng/USD, giảm 67 đồng/USD so cùng kỳ.

    4. Đầu tư và Xây dựng:

    Vốn đầu tư toàn xã hội quý III/2019, ước thực hiện 9.375 tỷ đồng, tăng 1,3% so cùng kỳ; bao gồm: vốn Nhà nước 1.214 tỷ đồng, vốn ngoài Nhà nước 6.517 tỷ đồng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.644 tỷ đồng.

    Vốn đầu tư toàn xã hội 9 tháng 2019, ước thực hiện 23.809 tỷ đồng, đạt 69% kế hoạch, tăng 10% so cùng kỳ, (trong đó: vốn đầu tư xây dựng cơ bản 15.410 tỷ đồng, chiếm 64,7% vốn đầu tư toàn xã hội, tăng 2,3% so cùng kỳ); bao gồm:

    + Nguồn vốn nhà nước: thực hiện 2.646 tỷ đồng, tăng 2,2% so cùng kỳ. Chín tháng đầu năm thực hiện chủ yếu các công trình chuyển tiếp, đối với các dự án mới đang trong giai đoạn phân bổ vốn, lập dự toán, hoàn chỉnh hồ sơ và giải phóng mặt bằng. Đối với các dự án Trung ương đầu tư trên địa bàn tỉnh các Ban quản lý dự án đã chủ động phối hợp để thực hiện. Các công trình còn lại đang tiếp tục thi công, tổ chức lựa chọn nhà thầu hoặc đang tiến hành công tác giải phóng mặt bằng.

    + Nguồn vốn ngoài nhà nước: thực hiện 16.861 tỷ đồng, tăng 11,5% so cùng kỳ. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp thực hiện chủ yếu là các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động sửa chữa lại tài sản phục vụ sản xuất kinh doanh, tập trung nhiều nhất là các ngành khai thác thủy sản, xay xát… Đối với các hộ dân chín tháng đầu năm thực hiện đầu tư chủ yếu sản xuất kinh doanh như: mua con giống, trồng cây lâu năm, lắp đặt hệ thống tưới cây ăn quả, ...Đối với các hộ xây dựng nhà ở chủ yếu sửa chữa đối với các hộ xây dựng mới thực hiện chưa nhiều.

    + Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: thực hiện 4.302 tỷ đồng, tăng 9,5% so cùng kỳ. Thu hút được 3 dự án vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký mới 8.046 tỷ đồng, vốn đầu tư đăng ký gấp 4,6 lần so cùng kỳ. Các dự án đầu tư đến từ các quốc gia Trung Quốc, Hàn Quốc .

    Tổng vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý quý III/2019 thực hiện 955 tỷ đồng, tăng 5,9% so cùng kỳ; trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 754 tỷ đồng, tăng 3,9% so cùng kỳ. 9 tháng đầu năm 2019 thực hiện 1.989 tỷ đồng, đạt 61,7% kế hoạch, tăng 10,5% so cùng kỳ; gồm có: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 1.557 tỷ đồng, tăng 9%; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 285 tỷ đồng, tăng 17,5%; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 147 tỷ đồng, tăng 13% so cùng kỳ.

    5. Tình hình phát triển của doanh nghiệp:

    Tổng số doanh nghiệp thành lập mới ước tính trong quý III/2019 là 105 doanh nghiệp. Từ đầu năm đến 13/9/2019 có 413 doanh nghiệp thành lập mới với tổng vốn đăng 4.514 tỷ đồng; trong đó: vùng Trung tâm 256 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký 1.968  tỷ đồng; vùng phía Tây 112 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký 2.426 tỷ đồng và vùng phía Đông 45 doanh nghiệp, tổng vốn đăng ký 120 tỷ đồng.

    Ước thực hiện 9 tháng năm 2019 có 450 doanh nghiệp thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 4.769 tỷ đồng, đạt 60% so với kế hoạch năm 2019, tăng 2,5% về số doanh nghiệp và tăng 44% về vốn đăng ký so cùng kỳ. Vốn đầu tư bình quân là 11 tỷ đồng/doanh nghiệp (cùng kỳ 7 tỷ đồng/doanh nghiệp); có 470 đơn vị trực thuộc đăng ký hoạt động. Bên cạnh đó, ước thực hiện 9 tháng năm 2019 có 155 doanh nghiệp đăng ký tăng vốn với số vốn tăng thêm là 3.000 tỷ đồng; có 55 doanh nghiệp đăng ký giải thể. Tính đến cuối tháng 9/2019, toàn tỉnh hiện có khoảng 5.439 doanh nghiệp hoạt động.

    Trong 9 tháng đầu năm 2019, có 14 hợp tác xã (HTX) được thành lập mới với tổng số 566 thành viên, vốn góp hơn 3.025 triệu đồng; giải thể 1 HTX; ngưng hoạt động 6 HTX. Toàn tỉnh hiện có 01 Liên hiệp HTX nông nghiệp và 187 HTX, quỹ tín dụng nhân dân, đạt 105,1% kế hoạch 2019, tăng 16,1% so cùng kỳ, có 64.702 thành viên, tăng 16,7% so cùng kỳ. Trong 9 tháng đầu năm 2019, doanh thu hoạt động các HTX ước 2.157 tỷ đồng, đạt 77,6% kế hoạch, tăng 10,5% so với cùng kỳ; lợi nhuận sau thuế 30 tỷ đồng, đạt 66,1% kế hoạch, tăng 7,8% so cùng kỳ; thu nhập bình quân 4,9 triệu đồng/thành viên/tháng, tăng 11,4% so cùng kỳ.

    6. Sản xuất nông - lâm nghiệp và thủy sản:

    a. Nông nghiệp:

    Cây lương thực có hạt: 9 tháng 2019, gieo trồng 188.122 ha, đạt 95,4% kế hoạch, giảm 8,4% so cùng kỳ; sản lượng thu hoạch 994.138 tấn, đạt 83,8% kế hoạch, giảm 10,9% chủ yếu là do diện tích gieo trồng lúa vụ Đông Xuân 2018 - 2019 giảm 5,7% và năng suất thu hoạch giảm 3,5% do ảnh hưởng của thời tiết, nắng nóng, lúa trổ sớm, sương mù…; trong đó: cây lúa gieo sạ 184.154 ha, thu hoạch 157.326 ha với sản lượng 981.949 tấn, đạt 84% kế hoạch.

    Vụ Đông Xuân 2018-2019: gieo sạ 64.860 ha, đạt 97,7% kế hoạch, giảm 5,7% so cùng kỳ do thực hiện đề án cắt vụ và chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với các vùng sản xuất lúa khó khăn. Năng suất 71,9 tạ/ha, giảm 3,5% so cùng kỳ. Sản lượng 466.625 tấn, giảm 9,1% so cùng kỳ. Giá lúa vụ Đông Xuân giảm, trong khi giá vật tư nông nghiệp đã đầu tư hồi đầu vụ tăng rất mạnh, làm cho lợi nhuận từ sản xuất lúa giảm. Sau khi Bộ Tài chính triển khai mua dự trữ 200.000 tấn gạo và 80.000 tấn lúa theo chỉ đạo của Thủ tướng, giá lúa gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long có diễn biến tích cực, giá lúa có tăng nhưng không cao, khoảng 100 đồng/kg, trong khi đó đa phần người dân đã nhận cọc của thương lái trước đó nên phải bán với giá cũ.

    Vụ Hè Thu: gieo sạ 92.466 ha, đạt 92% kế hoạch, giảm 11,4% so cùng kỳ; năng suất sơ bộ 55,7 tạ/ha; sản lượng 515.324 tấn, đạt 91,3% kế hoạch, giảm 12,7% so cùng kỳ do diện tích và năng suất đều thấp hơn cùng kỳ.

    Vụ Thu Đông: ước xuống diện tích gieo sạ vụ này khoảng 26.828 ha, tập trung ở các huyện phía đông. Đây là vùng trọng điểm trồng lúa đặc sản và lúa chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xuất khẩu của địa phương với các loại giống: Nàng hoa 9, OM 4900, OM 6162… Theo Sở NN và PTNN khung lịch thời vụ vụ lúa Thu Đông năm 2019 vùng Dự án thủy lợi Ngọt hóa Gò Công tập trung xuống giống từ 5 đến 15/9/2019, với các giống lúa có thời gian sinh trưởng từ 90-95 ngày, có khả năng chịu hạn, chịu mặn và phải tuân thủ nguyên tắc: gieo trồng đồng loạt, tập trung; sử dụng nước tưới tiết kiệm, né rầy. Nơi nào xuống giống không kịp lịch thời vụ, khuyến cáo nông dân chuyển đổi sang trồng rau màu để chuẩn bị tốt cho vụ lúa Đông xuân 2019-2020.

    Cây ngô: 9 tháng trồng 3.968 ha, đạt 85,1% kế hoạch, giảm 5,8% so cùng kỳ do người dân ở những xã thuộc hệ thống cống Bảo Định và một số xã hệ ngọt hóa Gò Công thuộc huyện Chợ Gạo đánh giá lợi nhuận từ cây ngô không cao, không ổn định nên đã chuyển đổi diện tích sang trồng cây Thanh long, một số cây ăn quả và hoa màu khác; thu hoạch 3.405 ha, năng suất quy thóc 35,8 tạ/ha với sản lượng quy thóc 12.189 tấn, đạt 70,9% kế hoạch, giảm 5,2% so cùng kỳ chủ yếu do diện tích gieo trồng giảm.

    Cây rau đậu các loại: 9 tháng gieo trồng 57.152 ha, thu hoạch 48.185 ha với sản lượng 941.115 tấn, đạt 82,9% kế hoạch, tăng 8,3% so cùng kỳ; trong đó: rau các loại 56.914 ha, thu hoạch 47.985 ha với sản lượng 940.509 tấn, tăng 8,3% so cùng kỳ. Nông dân Tiền Giang đang phát triển nhiều mô hình trồng rau màu: chuyên canh, luân canh trên nền đất lúa, xen canh lúa và màu… để thích ứng biến đổi khí hậu, giúp nông dân có thu nhập cao, đời sống ổn định là hướng đi đang được khuyến khích. Tỉnh cũng xác định cây màu là thế mạnh trong nền sản xuất nông nghiệp tại địa phương.

    Cây lâu năm: toàn tỉnh hiện có 99.241 ha trồng cây lâu năm, tăng 5% tương ứng tăng 4.727 ha so với cùng kỳ năm trước, diện tích tăng chủ yếu ở các loại cây: hồng xiêm 806 ha, thanh long 1.793 ha, bưởi 296 ha… và cây dừa 77 ha; sản lượng thu hoạch ước 1,3 triệu tấn, tăng 3,7% so cùng kỳ. Nhìn chung, giá một số loại trái cây trong năm ổn định, nhờ ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất như xử lý cho trái vụ tránh tình trạng được mùa rớt giá giúp bà con nông dân bán được giá cao.

    b. Chăn nuôi: ước thời điểm 01/9/2019 tổng đàn gia súc, gia cầm của tỉnh như sau: đàn bò 120 ngàn con, tăng 0,6%; đàn lợn 418 ngàn con, giảm 30,2%; đàn gia cầm (không kể chim cút) 14,8 triệu con, tăng 11,6% so cùng kỳ.

    c. Lâm nghiệp:

    Chín tháng đầu năm 2019, thực hiện trồng mới được 618 ngàn cây phân tán các loại, giảm 19,4% so cùng kỳ do thời tiết nóng, khô chưa phù hợp để trồng và quỹ đất của tỉnh không còn đất trống để trồng, cây trồng phân tán hiện nay chủ yếu là do hộ dân trồng. Các loại cây chủ yếu được trồng là tràm bông vàng, bạch đàn và cây khác trồng trên các bờ ao, ven sông và cặp theo tuyến kênh.

    Trồng rừng: công trình “Dự án trồng rừng thay thế do chuyển mục đích sử dụng rừng phòng hộ sang thực hiện dự án Cụm Công nghiệp Gia Thuận 1” đã trồng được 50 ha rừng phòng hộ tại xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông. Tiếp tục phối hợp với đơn vị thi công chăm sóc 6,9 ha rừng phi lao tại xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông thuộc công trình trồng rừng phòng hộ ven biển tỉnh năm 2016. Tổng diện tích rừng trên địa bàn tỉnh hiện có 1.957 ha (không gồm diện tích rừng thuộc đất an ninh quốc phòng), giảm 40 ha so cuối năm 2018 do người dân khai thác rừng sản xuất; gồm: diện tích rừng phòng hộ 1.298 ha và rừng sản xuất 659 ha; giao khoán quản lý bảo vệ rừng phòng hộ ven biển năm 2019 với diện tích giao khoán là 1.000 ha. 9 tháng 2019 không xảy ra cháy rừng.

    d. Thủy hải sản:

    Chín tháng đầu năm 2019, thả nuôi 15.233 ha, đạt 95,4% kế hoạch, tăng 0,2% so cùng kỳ. Thủy sản nước ngọt nuôi 5.351 ha, giảm 5,9% so cùng kỳ do thời tiết nắng nóng kéo dài, mực nước trên nội đồng thấp kết hợp với mặn xâm nhập vào nội địa nên người dân chỉ thả nuôi ở một số vùng có điều kiện thuận lợi. Thủy sản nước mặn, lợ nuôi 9.882 ha, tăng 3,8% so cùng kỳ; diện tích nuôi tăng chủ yếu là diện tích nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng ở huyện Gò Công Đông và huyện Tân Phú Đông

    Sản lượng thủy sản thu hoạch 9 tháng/2019 được 239.645 tấn, đạt 83,2% kế hoạch, tăng 8,9% so cùng kỳ; trong đó: sản lượng thu hoạch từ nuôi 147.209 tấn, đạt 87,6% kế hoạch, tăng 3,8% so cùng kỳ; sản lượng khai thác 92.436 tấn (trong đó: khai thác biển 87.937 tấn), đạt 77% kế hoạch, tăng 18,3% so cùng kỳ do đầu tư cải hoán và đóng mới tàu, thời tiết thuận lợi cho hoạt động khai thác, ngư trường năm nay có nhiều loại cá hơn nên bà con ngư dân đã khai thác đạt sản lượng cao so cùng kỳ.

    7. Sản xuất công nghiệp:

    Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9/2019 tăng 3,7% so tháng 8/2019 và tăng 11,6% so cùng kỳ, các ngành chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh sản xuất ổn định và tăng so cùng kỳ; trong đó: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 11,1%, sản xuất đồ uống tăng 16%, sản xuất trang phục tăng 6,5%, sản xuất kim loại tăng 10,4%...

    Chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng đầu năm 2019 tăng 11,4% so cùng kỳ; trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 11,4% (tập trung ở một số ngành chủ yếu sau: sản xuất trang phục tăng 48,5%, sản xuất đồ uống tăng 25,9%, sản xuất kim loại tăng 12,6%...); ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 7,8%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 19,8%.

    Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tháng 09/2019 so tháng trước tăng 0,9%, trong đó: doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 1,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,6%; so cùng kỳ tăng 1,8%, trong đó: doanh nghiệp nhà nước tăng 0,4%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 0,5%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,3%. Chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 9/2019 tăng 2,7%, trong đó: doanh nghiệp nhà nước giảm 0,8%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 3,3%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,7%. Chia theo ngành công nghiệp: chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 9/2019 tăng 2,7%; trong đó: ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 2,8%, sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 2,8%; cung cấp nước, hoạt động quản lý rác thải, nước thải giảm 3%.

    Sản phẩm công nghiệp: 9 tháng năm 2019 có 32/42 sản phẩm tăng so cùng kỳ: các bộ phận của bi, bánh răng, hộp số, các bộ phận điều khiển và truyền chuyển động khác tăng 117,1%; máy gặt đập liên hợp tăng 80%; bộ com lê, quần áo đồng bộ, áo jacket, quần dài, quần yếm, quần soóc cho người lớn dệt kim hoặc đan móc tăng 63%; bia đóng chai tăng 39,1%; bia đóng lon tăng 16,4%; nước uống được tăng 16%; thức ăn cho thủy sản tăng 14,1%; thức ăn cho gia súc tăng 8,9%; phi lê đông lạnh tăng 6%... Có 10/42 sản phẩm giảm so cùng kỳ: phân khoáng hoặc phân hóa học chứa 3 nguyên tố: nitơ, photpho và kali (NPK) giảm 34,8%; dịch vụ sản xuất sản phẩm điện tử dân dụng giảm 29,6%; giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic giảm 6,2%; thuốc diệt cỏ, thuốc chống nảy mầm và thuốc điều hòa sinh trưởng cây trồng giảm 6,1%...

    * Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo:

    - Chỉ số tiêu thụ tháng 9/2019 so với tháng trước tăng 0,5% và giảm 8,4% so cùng kỳ. Chỉ số tiêu thụ cộng dồn từ đầu năm đến cuối tháng 9/2019 tăng 1,5%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: sản xuất đồ uống tăng 25,8%; dệt tăng 6,4%; sản xuất trang phục tăng 25,5%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 0,1%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 6,3%; sản xuất sản phẩm cao su và plastic tăng 10%; sản xuất kim loại tăng 11,1%; sản xuất thiết bị điện tăng 6,4%... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 2,6%, trong đó chế biến, bảo quản thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản giảm 13,7%; sản xuất da giảm 3,6%, trong đó sản xuất va li, túi xách giảm 6,6%...

    - Chỉ số tồn kho tháng 9/2019 so với tháng trước tăng 23,2% và so với cùng kỳ tăng 33,6%. Một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với cùng kỳ là: sản xuất chế biến thực phẩm tăng 0,2%; sản xuất đồ uống bằng gấp 9,8 lần; dệt bằng gấp 3,1 lần; sản xuất da tăng 71,8%; sản xuất kim loại tăng 166,6%; sản xuất thiết bị điện tăng 10,8%... Bên cạnh đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ là: sản xuất trang phục giảm 12,3%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 43,1%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 5,6%; công nghiệp chế biến chế tạo khác giảm 82%...

    8. Thương mại, dịch vụ:

     a. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng:

    Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tháng 9/2019 thực hiện đạt 5.414 tỷ đồng, tăng 12,9% so cùng kỳ; trong đó: tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa 4.342 tỷ đồng, tăng 2,7 % so tháng trước (nhóm hàng hóa có tỉ trọng lớn là lương thực thực phẩm chiếm 35,4% tăng 2,7%). Nhìn chung, các nhóm hàng hóa đều tăng so tháng trước, trong đó: có một số nhóm tăng cao như: vật phẩm văn hóa giáo dục tăng 3,9%, hàng may mặc tăng 2,4% do nhu cầu mua sắm năm học mới, đá quý, kim loại quý và sản phẩm tăng 5,8%, vật liệu xây dựng tăng 1,5%… do nhu cầu thị trường.

    Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 9 tháng/2019 thực hiện 45.976 tỷ đồng, đạt 74,2% kế hoạch, tăng 9,2% so cung kỳ. Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp 36.457 tỷ đồng, tăng 9,4%; lưu trú 97 tỷ đồng, tăng 6,7%; ăn uống 4.793 tỷ đồng, tăng 9%; du lịch lữ hành 89 tỷ đồng, tăng 14,5%; dịch vụ 4.540 tỷ đồng, tăng 8,4% so cùng kỳ; trong đó nhóm hàng chiếm tỉ trọng cao nhất là lương thực, thực phẩm với doanh thu đạt 13.171 tỷ đồng, tăng 4,7% so cùng kỳ. Thị trường hàng hóa và giá cả tương đối ổn định, không có biến động lớn, hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Các dịp như Tết Nguyên đán, Giỗ tổ mùng 10/3 và Lễ 30/4, 1/5 sức mua của người dân tăng hơn bình thường ở các nhóm như lương thực, đồ dùng gia đình, hàng may mặc và một số hàng hóa thiết yếu.

    b. Xuất - Nhập khẩu:

    * Xuất khẩu:

    Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 9/2019 ước 381,7 triệu USD, đạt 12,7% kế hoạch; trong đó: kinh tế nhà nước 1 triệu USD, kinh tế ngoài nhà nước 63,4 triệu USD, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 317,3 triệu USD. Xuất khẩu tập trung ở một số mặt hàng: thủy sản 31 triệu USD; túi xách, ví, vali, mũ và ô dù 39,7 triệu USD; dệt may 117,7 triệu USD…

    - Thủy sản: ước xuất 99.520 tấn, tăng 20,1% so cùng kỳ, về giá trị đạt 273,9 triệu USD, tăng 21,8% so cùng kỳ. Ngay những tháng đầu của năm 2019, thị trường cá tra nguyên liệu đã bất ngờ giảm mạnh. Các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng cá tra sang thị trường lớn như Trung Quốc và Hoa Kỳ sụt giảm. Bộ Thương mại Hoa Kỳ công bố kết quả cuối cùng của đợt xem xét hành chính lần thứ 14, với mức thuế tăng khá cao gây bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam, nên khả năng xuất khẩu cá tra sang Hoa Kỳ tiếp tục giảm trong thời gian tới. Thị trường Trung Quốc chuyển từ nhập khẩu tiểu ngạch sang chính ngạch yêu cầu các lô hàng thủy sản nhập khẩu phải được sản xuất từ cơ sở có tên trong danh sách kèm chứng thư. Thị trường châu Âu, Brazil, Liên bang Nga... cảnh báo, các cơ sở chế biến thủy sản Việt Nam nếu phát hiện hóa chất kháng sinh bị cấm, sẽ đưa khỏi danh sách nhập khẩu vào thị trường của họ.

    Ngày 21/8/2019, mức thuế xuất khẩu tôm 0% cho một số doanh nghiệp vừa được Bộ Thương mại Mỹ (DOC) công bố chứng tỏ các doanh nghiệp tôm Việt Nam trung thực trong hoạt động, khai báo số liệu kinh doanh với DOC đầy đủ, chính xác và kịp thời. Đây là thành quả tốt nhất trong 13 lần xem xét hành chính về thuế chống bán phá giá tôm Việt Nam vào Mỹ. Với mức thuế như nêu trên, đây là tin vui cho ngành tôm Việt Nam, là động lực tốt để các thương nhân tôm tiếp tục việc kinh doanh, tạo tiền đề tăng trưởng trong thời gian tới.

    - Gạo: ước tính xuất 118.612 tấn, giảm 45,9% so cùng kỳ, về giá trị đạt 54,4 triệu USD, giảm 53,3% so cùng kỳ. Thị trường Trung Quốc, Hồng Kông nhập khẩu với số lượng lớn của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của tỉnh. Từ đầu năm đến nay sản lượng xuất khẩu gạo sang các thị trường này ngày càng giảm, các doanh nghiệp đang chật vật tìm thị trường mới; trong đó: chỉ có thị trường Philippines tăng mạnh hơn do ngày 15/2/2019, quốc gia này đã ký ban hành Đạo luật số 11203 chuyển đổi cơ chế nhập khẩu gạo từ áp dụng hạn ngạch sang thuế hóa. Đạo luật này xóa bỏ quy định về hạn ngạch nhập khẩu đối với mặt hàng gạo và thay vào đó áp dụng thuế nhập khẩu 35% từ các quốc gia khối ASEAN. Đây là mức thuế thấp hơn rất nhiều so với mức thuế được Philippines áp dụng cho các quốc gia ngoài ASEAN, lên đến 180%. Tuy nhiên, Philippines tăng cường kiểm soát chất lượng, do đó, sản phẩm gạo Việt Nam nhất định phải thay đổi, bắt buộc sản xuất trong nước phải theo một quy trình mà đối tác đưa ra

    - May mặc: xuất 51.322 ngàn sản phẩm, giảm 8,9%, trị giá đạt 585 triệu USD, tăng 59,3% so cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc chiếm 23,3% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh nhưng nguyên phụ liệu vẫn còn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.

    * Nhập khẩu:

    Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa quý III/2019 thực hiện 413,4 triệu USD, đạt 23% kế hoạch, tăng 34,5% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 33,3 triệu USD, tăng 2%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 380,1 triệu USD, tăng 38,4% so cùng kỳ.

    Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 9 tháng đầu năm 2019 thực hiện 1.289,9 triệu USD, đạt 71,7% kế hoạch, tăng 22,1% so cùng kỳ; trong đó: kinh tế ngoài nhà nước 94,9 triệu USD, giảm 3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.195,1 triệu USD, tăng 24,6% so cùng kỳ; nguyên liệu nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng cho ngành dệt may 466 triệu USD, chiếm 36%; kim loại thường 329 triệu USD, chiếm 25,5%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng 141,6 triệu USD, chiếm 11%... trong tổng kim ngạch nhập khẩu.

    c. Vận tải:

    Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải quý III/2019 thực hiện 624 tỷ đồng, tăng 8,5% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 210 tỷ đồng, tăng 27,2% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 365 tỷ đồng, tăng 2,7% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 323 tỷ đồng, tăng 5,1%; vận tải đường thủy thực hiện 251 tỷ đồng, tăng 18,3%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 50 tỷ đồng, giảm 10,2% so cùng kỳ.

    Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải 9 tháng đầu năm 2019 thực hiện 1.855 tỷ đồng, tăng 8,7% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu vận tải hành khách thực hiện 583 tỷ đồng, tăng 12,6% so cùng kỳ; vận tải hàng hóa thực hiện 1.132 tỷ đồng, tăng 9,1% so cùng kỳ. Vận tải đường bộ thực hiện 1.007 tỷ đồng, tăng 6,8%; vận tải đường thủy thực hiện 708 tỷ đồng, tăng 15,6%; kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải 140 tỷ đồng, giảm 7% so cùng kỳ.

    Vận chuyển hành khách 9 tháng đầu năm 2019 đạt 23.650 ngàn hành khách, tăng 14,6% và luân chuyển 736.285 ngàn hành khách.km, tăng 2,4% so cùng kỳ; trong đó: vận chuyển đường bộ 13.296 ngàn hành khách, tăng 2,7% và luân chuyển 715.106 ngàn hành khách.km, tăng 1,5% so cùng kỳ; vận chuyển đường thủy 10.354 ngàn hành khách, tăng 34,5% và luân chuyển 21.179 ngàn hành khách.km, tăng 50,4% so cùng kỳ.

    Vận tải hàng hóa 9 tháng đầu năm 2019 đạt 10.733 ngàn tấn, tăng 3,8% và luân chuyển được 1.272.468 ngàn tấn.km, tăng 4% so cùng kỳ; trong đó: vận tải đường bộ thực hiện 2.915 ngàn tấn, tăng 2,1% và luân chuyển được 301.440 ngàn tấn.km, tăng 1,3% so cùng kỳ; vận tải đường thủy thực hiện 7.818 ngàn tấn, tăng 4,5% và luân chuyển được 971.028 ngàn tấn.km, tăng 4,9% so cùng kỳ.

    d. Du lịch:

    Ước tính lượng khách du lịch đến tỉnh trong 9 tháng đầu năm 2019 đạt 1.502,4 ngàn lượt, đạt 71,5% kế hoạch, tăng 5,6% so cùng kỳ; trong đó: khách quốc tế 476,7 ngàn lượt, đạt 56,8% kế hoạch, tăng 0,3% so cùng kỳ. Trong tổng số khách du lịch thì khách do các cơ sở lưu trú phục vụ 855,7 ngàn lượt, khách do các cơ sở du lịch lữ hành hành phục vụ 646,7 ngàn lượt. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành đạt 4.979 tỷ đồng, tăng 9,1%; trong đó doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống chiếm 98,2%.

    Trong dịp tết Nguyên đán, khách du lịch đến tỉnh Tiền Giang là 116 nghìn lượt, tăng 28% so cùng kỳ năm 2018, trong đó: khách quốc tế là 28 nghìn lượt, tăng 5,2% so cùng kỳ. Khu du lịch cù lao Thới Sơn khách tăng 6,6%; khu du lịch biển Tân Thành khách tăng 12,8%; khu du lịch Cái Bè khách tăng 5,1%; khu du lịch sinh thái Đồng Tháp Mười kết hợp hành hương Thiền Viện Trúc Lâm Chánh Giác thu hút hơn 50.000 lượt khách, tăng 65% so Tết năm 2018.

    e. Bưu chính viễn thông:

    9 tháng đầu năm 2019, doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 2.086 tỷ đồng, tăng 16,4% so cùng kỳ; trong đó: doanh thu bưu chính 148 tỷ đồng, tăng 72,9%; doanh thu viễn thông 1.938 tỷ đồng, tăng 13,6%; doanh thu tăng tập trung vào tháng có ngày nghỉ lễ do nhu cầu sử dụng dịch vụ tăng.

    Tổng số thuê bao điện thoại có trên mạng đến cuối tháng 9/2019 là 110.707 thuê bao (chỉ tính thuê bao cố định và di động trả sau); thuê bao điện thoại bình quân đạt 6,3 thuê bao/100 dân. Số lượng điện thoại cố định có dây, không dây tiếp tục giảm, do thị trường phát triển thuê bao dần bảo hòa và giá cước điện thoại ngày càng giảm cho nên khách hàng chuyển sang sử dụng điện thoại di động, trong đó chủ yếu là điện thoại di động trả trước. Số điện thoại di động có sử dụng Internet 3G đến cuối tháng 8/2019 là 943.873 thuê bao.

    Tổng số thuê bao Internet phát triển mới trong 9 tháng đầu năm 2019 là 45.374 thuê bao (trong đó: ADSL giảm 3.614 thuê bao; FTTH tăng 48.988 thuê bao); số thuê bao Internet trên mạng có đến cuối tháng 9/2019 là 216.297 thuê bao; mật độ Internet bình quân ước đạt 12,3 thuê bao/100 dân.

    B. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

    1. Lao động, giải quyết việc làm:  

    Các hoạt động hỗ trợ tư vấn giới thiệu việc làm và đào tạo nghề tiếp tục được củng cố và tăng cường. Từ đầu năm đến nay đã giới thiệu việc làm cho 1.774 lượt lao động đạt 67,2% so cùng kỳ và đạt 71% kế hoạch năm, trong đó: nữ 1.019 lượt lao động (chiếm 57,4%); có 923 lao động có được việc làm ổn định; có 199 lao động xuất cảnh, trong đó xuất cảnh qua Nhật Bản: 149 lao động, Đài Loan: 38 lao động, Hàn Quốc: 5 lao động và thị trường khác 7 lao động; có 12.215 người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp; có 11.615 người được hưởng trợ cấp thất nghiệp với tổng số tiền chi trả tương đương 162.339 triệu đồng. Tổ chức 9 phiên giao dịch việc làm có 30 doanh nghiệp tham gia phỏng vấn tuyển dụng trực tiếp với nhu cầu tuyển dụng 5.414 lao động, thu hút 976 lượt lao động tham gia. Nhìn chung, từ đầu năm đến nay, công tác tư vấn và giới thiệu việc làm, tổ chức các phiên giao dịch việc làm được thực hiện tốt, giúp cho nhiều doanh nghiệp và người lao động nắm bắt thông tin để kịp thời đăng ký tuyển dụng và tìm việc.

    Theo tổng hợp sơ bộ điều tra mẫu Lao động việc làm Quý III năm 2019, dân số từ 15 tuổi trở lên của tỉnh chiếm 59,9% dân số quý III năm 2019, giảm 2,1 điểm phần trăm so cùng kỳ năm 2018. Tỷ trọng lực lượng lao động khu vực thành thị quý III năm 2019 giảm 0,8 điểm phần trăm so quý III năm 2018 (quý III năm 2018 tỷ trọng lực lượng lao động của thành thị chiếm 33,8%). Vì tỷ trọng của lực lượng lao động khu vực thành thị quý III không tăng mà lại giảm đã làm cho tỷ trọng của lực lượng lao động khu vực nông thôn hiện nay vẫn khá cao (chiếm đến 67%). Lực lượng lao động là nữ quý III năm 2019 chiếm 50,7% so với tổng Lực lượng lao động trong quý III năm 2019 (giảm 0,9 điểm phần trăm so cùng kỳ). Cùng với vấn đề thiếu việc làm ở nông thôn, thì vấn đề thất nghiệp chung của tỉnh và ở khu vực thành thị trong quý III năm 2019 cũng rất đáng quan tâm. Tỷ lệ lao động thất nghiệp chung của toàn tỉnh quý III năm 2019 tăng 0,3 điểm phần trăm so 2018 và tỷ lệ lao động thất nghiệp khu vực thành thị từ 2,5% năm 2018 lên 4,1% năm 2019 (tăng 1,6 điểm phần trăm). Cũng chính vì vậy đã làm cho tỷ trọng thất nghiệp ở khu vực thành thị chiếm 67,7% so với tổng số lao động thất nghiệp của toàn tỉnh và tỷ trọng số lao động thất nghiệp khu vực thành thị trong quý III năm 2019 tăng 17,7 điểm phần trăm so với quý III năm 2018.

    Mặc dù, tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh trong quý III năm 2019 tăng so với cùng kỳ năm 2018 nhưng theo số liệu sơ bộ trong 9 tháng đầu năm 2019 thì tỷ lệ lao động thất nghiệp chung của toàn tỉnh có phần giảm nhẹ từ 1,7% xuống còn 1,6% (giảm 0,1 điểm phần trăm) so cùng kỳ. Nhưng xét riêng cho khu vực thành thị thì tỷ lệ lao động thất nghiệp khu vực thành thị trong 9 tháng lại tăng so với cùng kỳ từ 3,0% năm 2018 lên 3,1% năm 2019 (tăng 0,1 điểm phần trăm).

    Sở dĩ, số lao động thất nghiệp khu vực thành thị trong quý III và 9 tháng đầu năm 2019 có phần tăng hơn so cùng kỳ, làm cho tỷ lệ thất nghiệp của khu vực thành thị tăng là do có một số lao động đã làm việc những công việc không phù hợp nên đã nghỉ việc; một số lao động làm việc theo thời vụ hay do thời tiết nên tạm thời nghỉ việc và đang tìm việc làm (như cắt đầu cá, bóc vác, thợ hồ, phụ hồ,…); một số lao động khác là lao động phổ thông làm việc tại các doanh nghiệp lớn, thuộc các nhóm ngành nghề: may mặc, giày da, túi xách, bao bì, thủy sản,…đã chủ động nghỉ việc để hưởng trợ cấp thất nghiệp. Sau đó tìm kiếm công việc mới vì hiện nay nhu cầu tuyển dụng nguồn lao động phổ thông rất lớn nên người lao động phổ thông dễ tìm việc làm,... Vì vậy, đã làm cho tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị quý III và 9 tháng đầu năm 2019 tăng so với cùng kỳ năm 2018.

    2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội:

    Tình hình sản xuất nông nghiệp vẫn còn khó khăn, tác động của biến đổi khí hậu, mưa lớn kèm theo gió mạnh gây thiệt hại cho sản xuất và thu nhập của người dân; tình hình dịch bệnh trên vật nuôi và cây trồng diễn biến phức tạp nhất là dịch tả lợn Châu Phi xuất hiện nhanh, lây lan sang diện rộng đã gây tổn thất lớn cho ngành chăn nuôi; giá cả các mặt hàng nông sản và thủy sản thường xuyên biến động không ổn định, có lúc xuống rất thấp gây lo lắng cho người dân; công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm còn nhiều bất cập, chưa được kiểm soát tốt… làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và đời sống người dân. Được sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh cùng với đoàn thể các cấp đã kịp thời có những chính sách hỗ trợ như hỗ trợ người chăn nuôi bị dịch tả lợn Châu phi, long mồm lỡ móng, tổ chức dạy nghề, giới thiệu, giải quyết việc làm giúp người dân khôi phục sản xuất, ổn định cuộc sống, yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh.

    Chính sách người có công: Vận động đóng góp quỹ đền ơn đáp nghĩa được 10.469 triệu đồng, đạt 104,7% kế hoạch năm; xây dựng 68 ngôi nhà tình nghĩa với kinh phí 2.640 triệu đồng, đạt 52,3% kế hoạch và sửa chữa 82 ngôi nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 1.640 tỷ đồng, đạt 234,3% kế hoạch. Theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ cho 5.719 người có công với cách mạng về nhà ở, với tổng kinh phí hỗ trợ là 172.220 triệu đồng, trong đó xây mới 2.910 căn, sửa chữa 2.809 căn. Tổ chức đưa người có công đi điều dưỡng tập trung 9 đợt, với 855 người có công, ở bốn địa điểm: Trung tâm điều dưỡng người có công Lâm Đồng, Đoàn An dưỡng điều dưỡng 198 Đà Lạt, trung tâm điều dưỡng người có công Miền Trung (thành phố Đà Nẵng) và trung tâm nuôi dưỡng người có công và Bảo trợ xã hội tỉnh Phú Yên; tổ chức 05 đợt, đưa 125 người có công đi viếng Lăng Bác Hồ, tham quan thủ đô Hà Nội (02 đợt) và đưa người hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày đi viếng nhà tù Phú Quốc (02 đợt), Côn đảo (01 đợt); tổ chức lễ trao bằng Danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho 22 mẹ và Huân chương Độc lập cho 136 gia đình có nhiều liệt sĩ vào ngày 29/8/2019.

    Công tác giảm nghèo-bảo trợ xã hội: các hoạt động an sinh xã hội, chăm lo tết cho đối tượng chính sách, hộ nghèo được triển khai thực hiện tốt. Nhân dịp Tết Nguyên Đán 2019, tổ chức trợ cấp cho 16.098 hộ nghèo với kinh phí 6,4 tỷ đồng từ nguồn ngân sách; hỗ trợ 140.025 phần quà cho các hộ nghèo và cận nghèo trị giá 42,6 tỷ đồng từ nguồn vận động. Ngoài ra, Sở Lao động Thương binh và Xã hội đã phối hợp Hội bảo trợ bệnh nhân nghèo, người khuyết tật và trẻ em mồ côi tỉnh tặng 250 phần quà cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, người khuyết tật và trẻ em mồ côi ở xã Tân Thuận Bình (Chợ Gạo) do Công ty cổ phần Sông Tiền tài trợ.

    Theo kết quả tổng hợp điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo, toàn tỉnh có 16.097 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 3,41% so với tổng số hộ toàn tỉnh, có 18.024 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 3,81%, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo đến cuối năm 2019 còn 2,99%.

    Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em: luôn được quan tâm với nhiều hoạt động như phối hợp với Báo Ấp Bắc thực hiện Chuyên trang “Vì trẻ em” nhằm tuyên truyền những nội dung về “Bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng”; “Phòng, chống tai nạn, thương tích, bạo lực và xâm hại đối với trẻ em”, gương điển hình người tốt, việc tốt trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt là những trẻ em điển hình trong vượt khó học giỏi, tuyên truyền về chủ đề “Chung tay vì trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số” nhằm thực hiện hiệu quả quyền trẻ em và các quy định của pháp luật về bảo vệ trẻ em trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và thế giới công nghệ số; tuyên truyền và phát động hưởng ứng “Tháng hành động vì trẻ em từ ngày 01/6 - 30/6/2019”. Quỹ Bảo trợ trẻ em vận động trên 2,1 tỷ đồng trong đó có trên 1,7 tỷ đồng tiền mặt với trên 345 triệu đồng hàng hóa, hỗ trợ cho khoảng 2.435 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn thông qua các chương trình trao tặng học bổng, tiếp sức đến trường, mái ấm khuyến học… Tổ chức trao tặng 2.000 phần quà Trung thu cho 2.000 trẻ em có hoàn cảnh khó khăn theo kế hoạch được phê duyệt.

    Từ đầu năm đến cuối tháng 8 toàn tỉnh đã cấp thẻ bảo hiểm miễn phí cho người nghèo là 45.801 thẻ và 55.527 thẻ dành cho người cận nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi là 150.795 thẻ. Đồng thời, hỗ trợ cho hộ bãi ngang ở các huyện (thị xã Gò Công, Gò Công Đông, Tân Phú Đông) có điều kiện khó khăn là: 91.275 thẻ.

    3. Hoạt động giáo dục:

    Trong 9 tháng, toàn ngành đã thực hiện tốt các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ủy ban nhân dân tỉnh về nhiệm vụ trọng tâm như: tổng kết năm học 2018-2019; tổ chức tốt kỳ thi tuyển sinh lớp 10; kỳ thi trung học phổ thông quốc gia năm 2019; khai giảng năm học mới năm 2019-2020. Tình hình phát triển mạng lưới trường học như sau:

    Giáo dục mầm non: có 186 trường (171 trường mầm non công lập và 15 trường mầm non ngoài công lập). Toàn tỉnh có 161/186 trường mầm non có tổ chức bán trú với tổng số nhóm, lớp ăn bán trú là 1.406/1.775, tỷ lệ 79,2%, tăng 31 nhóm, lớp ăn bán trú, tỷ lệ tăng là 2,3%. Tổng số bếp ăn là 161 bếp, số trẻ ăn bán trú tại trường là 47.070/58.339 trẻ, đạt tỷ lệ 80,7%.

    Giáo dục phổ thông: có 215 trường tiểu học (trong đó 211 trường tiểu học, 02 trường phổ thông có nhiều cấp học và 02 trường tiểu học - mầm non); 124 trường trung học cơ sở; 38 trường trung học phổ thông (32 trường công lập, 01 trường tư thục, 5 trường phổ thông có nhiều cấp học). Ngoài ra, còn có 01 Trung tâm Hỗ trợ Phát triển Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật cấp tỉnh trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo; 01 trường Chuyên biệt nuôi dạy trẻ khuyết tật trực thuộc Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Mỹ Tho.

    Giáo dục thường xuyên - Giáo dục chuyên nghiệp: có 2 trung tâm giáo dục thường xuyên (1 cấp tỉnh và 1 cấp huyện), 6 trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên cấp huyện, 3 khoa giáo dục thường xuyên trong các trường trung cấp và 173 trung tâm học tập cộng đồng; giáo dục nghề nghiệp có 6 trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên cấp huyện, 3 trường trung cấp nghề, 2 trường cao đẳng, 1 trường đại học.

    Khảo thí và quản lý chất lượng giáo dục: Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia năm 2019 Tiền Giang đạt 8 giải, trong đó có 01 giải nhất (Sinh học), 01 giải nhì (Sinh học), 02 giải ba (Sinh học, Ngữ văn), 04 giải khuyến khích (Sinh học, Tin học, Ngữ văn, Địa lý), xếp hạng 60/69 đơn vị dự thi toàn quốc; xếp hạng 7/13 các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long.

    Xét công nhận tốt nghiệp THPT sau phúc khảo, kết quả có 12.897/13.378, tỷ lệ 96,4% (trong đó có 11 thí sinh diện miễn thi; 6 thí sinh diện đặc cách và 7 thí sinh tự do); Có 22.678/22.700 (tỷ lệ 99,9%) học sinh được công nhận tốt nghiệp THCS năm 2019, trong đó 7.521 xếp loại giỏi, 8.082 loại khá và 7.215 loại trung bình (hỏng 22 học sinh).

    Toàn tỉnh có 264/565 (tỷ lệ 46,7%) trường đạt chuẩn quốc gia. Trường mầm non 64 trường, tiểu học 144 trường, trung học cơ sở 46 trường, trung học phổ thông 10 trường.

    4. Hoạt động y tế.

    Tình hình phòng chống dịch bệnh được theo dõi, giám sát thường xuyên, so với cùng kỳ có 13 bệnh tăng (bệnh tay-chân-miệng tăng 30,5%, thủy đậu tăng 25,1%, tiêu chảy tăng 7,6%...), có 10 bệnh giảm (bệnh quai bị giảm 59,7%, ho gà giảm 42,9%, sốt rét giảm 33,3%, viêm gan vi rút B giảm 24,6%...) và 20 bệnh tương đương không xảy ra cas mắc. Tình hình bệnh sốt xuất huyết đang có những diễn biến hết sức phức tạp, số cas mắc bệnh cao hơn so cùng kỳ, trong 9 tháng đầu năm có 2.674 cas mắc sốt xuất huyết tăng 142,4%, có 2 trường hợp tử vong do bệnh sốt xuất huyết. Nhiễm HIV/AIDS: phát hiện 194 cas mới nhiễm HIV giảm 9,6% so cùng kỳ, số cas mới AIDS là 24 cas giảm 25%; lũy kế đến nay số người nhiễm HIV là 5.354 cas, số cas AIDS là 1.773 và tử vong do AIDS là 959 cas.

    Công tác khám chữa bệnh chăm sóc sức khỏe nhân dân từng bước được nâng lên về chất lượng, tinh thần thái độ phục vụ bệnh nhân ngày càng tốt hơn, tạo được lòng tin trong nhân dân. Công suất sử dụng giường bệnh bình quân của các cơ sở điều trị đạt 102%, bệnh viện tuyến tỉnh đạt 124,8%, các bệnh viện chuyên khoa đạt 93,9%, bệnh viện tuyến huyện đạt 62,2%..., đã khám chữa bệnh 4.198.747 lượt người giảm 1,5% so cùng kỳ, trong đó điều trị nội trú 184.471 lượt người tăng 6,6%.

    Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được quan tâm thực hiện, nhất là công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về an toàn vệ sinh thực phẩm, hưởng ứng “Tháng hành động vì an toàn thực phẩm” năm 2019; kiểm tra 10.180 lượt cơ sở sản xuất, chế biến kinh doanh thực phẩm, kết quả có 97,5% cơ sở đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm; xảy ra 1 vụ ngộ độc thực phẩm tại Công ty TNHH Bodynits (ấp 6, xã Phú An, huyện Cai Lậy), có 16 người mắc, không có trường hợp tử vong.

    5. Hoạt động văn hóa - thể thao:

    Các hoạt động văn hóa, văn nghệ với nhiều hình thức đa dạng, sôi nổi, phong phú về nội dung gắn liền với các ngày lễ, sự kiện quan trọng của đất nước như: kỷ niệm 89 năm ngày Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Mừng Xuân Kỷ Hợi năm 2019; kỷ niệm 90 năm ngày Truyền thống Bộ đội Biên phòng và 30 năm ngày Biên phòng toàn dân; Giỗ Tổ Hùng Vương, kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam; lễ hội Anh hùng dân tộc Trương Định, lễ truy tặng Danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng và trao Huân chương Độc lập cho gia đình liệt sĩ… Trung tâm Văn hóa tỉnh tổ chức 07 chương trình văn nghệ tổng hợp như: chương trình nghệ thuật chào đón Tết Dương lịch 2019; chương trình Múa bóng rỗi, ảo thuật; giao lưu biểu diễn khiêu vũ “Những đôi nhảy đẹp”; chương trình những bước nhảy sôi động; giao lưu các ban nhạc tỉnh Tiền Giang mở rộng 2019… thu hút trên 7 ngàn lượt người đến xem và cổ vũ. Phối hợp và tổ chức 07 hội thi, liên hoan, triển lãm, gồm: hội thi và trưng bày hoa lan; liên hoan các ban nhạc đồng bằng sông Cửu Long 2019; 02 cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật với chủ đề “Sắc màu cuộc sống” và “Sức sống”; liên hoan sáng tác tác phẩm múa không chuyên lần I, liên hoan Văn nghệ quần chúng Trung tâm Văn hóa Thể thao các xã, phường, thị trấn tỉnh Tiền Giang năm 2019. Thông tin lưu động tỉnh tổ chức biểu diễn 53 buổi, phục vụ trên 11.500 lượt người xem. Thực hiện 1.170 lá cờ các loại, 98 tấm băng ron, 10 pano, thu âm 12 đĩa, 62 ngày xe loa lượt xe loa tuyên truyền các ngày lễ và sự kiện quan trọng của địa phương. Công tác Thanh - kiểm tra văn hóa cũng được quan tâm, trong 9 tháng đã tổ chức 26 cuộc thanh tra chuyên ngành; kết quả: nhắc nhở 32 vụ, tháo gỡ 30 băng rôn quảng cáo treo không đúng quy định, thu giữ hơn 1.000 tờ rơi sai quy định...

    Hoạt động thư viện tỉnh đã phục vụ được 73.462 lượt bạn đọc, với 185.210 lượt sách được lưu. Tiếp nhận 1.562 bản sách các loại; trong đó, sách nhận từ Quỹ Châu Á là 187 bản, trị giá 190 triệu đồng.

    Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”: công nhận mới 3 ấp, khu phố văn hóa; 11 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, 01 phường đạt chuẩn văn minh đô thị; 18 cơ sở thờ tự văn hóa và 22 con đường văn hóa. Toàn tỉnh có 1.004 ấp, khu phố văn hóa; 129 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, phường đạt chuẩn văn minh đô thị; 489 cơ sở thờ tự văn hóa; 554 con đường văn hóa; 44 chợ văn hóa và 11 công viên văn hóa.

    Phong trào thể thao quần chúng tiếp tục được duy trì và phát triển với nhiều hình thức như: Tổ chức ngày chạy Olympic, ngày Quốc tế Yoga và các hoạt động kỷ niệm 73 năm ngày Thể thao Việt Nam; đăng cai tổ chức 04 giải thể thao toàn quốc gồm: giải Vô địch Bóng ném; giải vô địch Cúp các câu lạc bộ KickBoxing; giải vô địch các câu lạc bộ PencakSilat, giải Bóng đá Hạng Nhì năm 2019, vòng loại bảng B. Tổ chức 18 giải cấp tỉnh và liên tịch, tham gia 43 giải quốc tế, mở rộng, khu vực, toàn quốc, giải trẻ và cup. Kết quả 9 tháng đầu năm 2019 đạt: 53 HCV, 85 HCB, 119 HCĐ, trong đó có 2 HCV, 01 HCB và 02 HCĐ đạt được ở 04 giải quốc tế mà tỉnh Tiền Giang tham gia.

     6. Tình hình trật tự an toàn xã hội: (Theo báo cáo của ngành Công an):

    Tội phạm về trật tự xã hội xảy ra 573 vụ, làm chết 11 người, bị thương 80 người (so với cùng kỳ tội phạm tăng 39 vụ, giảm 10 người chết và tăng 12 người bị thương), thiệt hại tài sản trị giá khoảng 15 tỷ đồng; trong đó, trọng án giảm 39,1% về số vụ, thường án tăng 7,2% về số vụ, chủ yếu là tội phạm trộm cắp tài sản, cướp-cướp giật tài sản và cố ý gây thương tích...

    Thực hiện các biện pháp tấn công, trấn áp tội phạm, vi phạm pháp luật, nhất là tội phạm liên quan đến băng, nhóm, “tín dụng đen”, cho vay lãi nặng, cờ bạc... đã điều tra khám phá 404 vụ, bắt xử lý 408 đối tượng, thu hồi tài sản trị giá khoảng 2,7 tỷ đồng; bắt, vận động đầu thú 50 đối tượng có lệnh truy nã; phát hiện, triệt xóa 286 tụ điểm cờ bạc, xử lý 1.799 đối tượng (khởi tố 13 vụ với 57 bị can); tiếp nhận 1.765 tố giác, tin báo về tội phạm, đã xác minh, giải quyết 1.588 tin; phát hiện, khởi tố 4 vụ với 7 bị can phạm tội trên lĩnh vực kinh tế, chức vụ và xử lý vi phạm hành chính 66 trường hợp vi phạm trật tự kinh tế (chủ yếu là hành vi vận chuyển, buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu và kinh doanh hàng hóa không hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc); phát hiện 148 vụ tội phạm, vi phạm pháp luật về ma túy, xử lý 167 đối tượng mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy và xử lý hành chính 1.690 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy;...

    7. Trật tự an toàn giao thông: (Theo báo cáo của ngành công an):

    Giao thông đường bộ: Từ đầu năm đến nay tai nạn xảy ra 231 vụ, làm chết 153 người, bị thương 135 người; so cùng kỳ tai nạn giảm 4 vụ, số người chết giảm 4 người, số người bị thương giảm 10 người. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ xảy ra 56.584 vụ giảm 19.945 vụ so cùng kỳ, đã xử lý tạm giữ giấy tờ và phương tiện 28.060 vụ, tước giấy phép lái xe 1.494 vụ, phạt tiền 28.524 vụ với số tiền phạt 20.709 triệu đồng.

    Giao thông đường thủy: Từ đầu năm đến nay xảy ra 3 vụ tai nạn giảm 3 vụ so cùng kỳ. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy xảy ra 14.157 vụ giảm 4.770 vụ so cùng kỳ, đã xử lý lập biên bản tạm giữ giấy tờ 2.823 vụ và phạt tiền 11.337 vụ với số tiền phạt trên 4.314 triệu đồng.

    * Tai nạn giao thông trong những ngày lễ 2/9 (từ 7 giờ ngày 31/8 đến 7 giờ ngày 2/9/2019): Giao thông đường bộ: tai nạn xảy ra 04 vụ tăng 01 vụ so cùng kỳ; làm 03 người chết, tăng 02 người; 01 người bị thương, giảm 06 người so cùng kỳ. Trong 03 ngày nghỉ Lễ, lưu lượng phương tiện tham gia giao thông tăng cao, nhưng không xảy ra tình trạng ùn tắc giao thông nghiêm trọng kéo dài, một số thời điểm xảy ra tình trạng phương tiện di chuyển chậm tại các khu vực cầu hẹp, ngã tư trên tuyến Quốc lộ 1 và khu vực cầu Rạch Miễu trên tuyến Quốc lộ 60.

    8. Tình hình cháy nổ, môi trường:

    Từ đầu năm đến nay xảy ra 14 vụ cháy, làm 01 người chết, tổng giá trị tài sản thiệt hại ước tính trên 15,5 tỷ đồng. Vi phạm môi trường đã phát hiện và xử lý 40 vụ với tổng số tiền xử phạt trên 907 triệu đồng.

    9. Thiệt hại do thiên tai:

    Từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh xảy ra 10 cơ lốc xoáy ở các huyện: Cái Bè, Tân Phước, Cai lậy, Châu Thành, Gò Công Tây, TX. Gò Công và Thành phố Mỹ Tho đã gây thiệt hại về nhà 330 căn (chủ yếu tốc mái), 1.160 cây ăn quả thiệt hại 100%, sập 17 Ki ốt, 120 gian hàng (hội chợ), ngã 04 trụ điện, sạt lở 30m, tốc mái 01 trường học, 12 điểm trường bị ảnh hưởng, 60m dây điện, 02 cái trung và cao thế, 6.000 hộ bị ảnh hưởng, 15.000 người bị ảnh hưởng. Ước tổng thiệt hại khoảng 12.278 triệu đồng.

SL ước tháng 9 - 2019

Các tin cùng chuyên mục:
Hiển thị kết quả 1-10 (của 19)
Trang:1 - 2Trang đầu « Lùi · Tới » Trang cuối

Một số chỉ tiêu chủ yếu tháng 02 năm 2024 (tăng/giảm) so với cùng kỳ năm 2023 của tỉnh Tiền Giang (%)

Chỉ số sản xuất công nghiệp(*)

-18,0

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

+8,9

Khách quốc tế đến Tiền Giang

+25,9

Thực hiện vốn đầu tư ngân sách nhà nước

-12,3

Chỉ số giá tiêu dùng (*)

+1,05

(*): so với tháng trước.

1. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2024 (xem chi tiết):

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (theo giá so sánh 2010) tăng từ 7,0 – 7,5% so với năm 2023;

- Cơ cấu kinh tế: khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm 35,1%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 29,6%, khu vực dịch vụ (bao gồm thuế sản phẩm) chiếm 35,3%.

- GRDP bình quân đầu người đạt 75,8 - 76,2 triệu đồng/người/năm;

- Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 5 tỷ USD;

- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 50.400 – 50.650 tỷ đồng;

- Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 8.801 tỷ đồng;

- Tổng chi ngân sách địa phương 14.456 tỷ đồng;

- Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đạt 890 doanh nghiệp.

Tìm kiếm thông tin
Thông tin người dùng
User Online: 16
Truy cập: 1.989.838
Truy cập tháng: 71.170
User IP: 18.226.96.61

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ CỤC THỐNG KÊ TỈNH TIỀN GIANG
21 đường 30/4, phường 1, Thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
ĐT: 0273. 3872582 - Fax: 0273. 3886 952 - Email:tiengiang@gso.gov.vn